Mục lục
- Món quà Giáng Sinh
- Tặng phẩm Chúa mong đợi
- Chúa đến nơi tha nhân
- Đồng xu vô giá
- Con người là kẻ thù của chính mình
- Tự đâm mình
- Sự tha thứ đích thực
- Đợi gì nơi cuộc sống
- Vị thượng khách
- Indira tầm đạo
- Cửa sổ hoặc tấm gương
- Cháu nhận lời ai
- Ông hoàng và tướng quỷ
- Chúa heo và chị bò
- Giấc mơ hãi hùng
- Chỗ ở của chuột
- Nếu tin, hãy buông tay ra
- Lời kinh đẹp nhất
- Tội vô tình
- Nước mắt sám hối
- Con sâu trong tảng đá
- Vị thánh là ai ?
- Người quét lá rừng
- Cái lưỡi
- Lấy ơn báo oán
- Dư luận
- Giá trị của một người bạn trăm năm
- Lời khuyên bằng vàng
- Chẳng cần phải xét mình
- Làm thế nào chịu thế ấy
- Không thập giá nào không đòi hỏi1
- Ba đồng tiền vàng
- Chiếc quan tài nhỏ
- Chần chờ
- Cha Maximiliano Kobe
- Con tim mở rộng
- Người thuyền trưởng
- Rượu
- Tha hết mọi tội
- Tái ông thất mã
- Giết chó khuyên chồng
- Chiến dịch bài sẻ
- Ba người bạn
- Mặt trời
- Bạn có biết
- Giá trị con người
- Con người
- Thiên Chúa cần con
- Lo cầu nguyện
01.MÓN QUÀ GIÁNG SINH
Một đôi vợ chồng
trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng
chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiền để mua.
Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến : Nàng có bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quý
nó và rất hãnh diện vì nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua
cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ giáng sinh, từ
phố về, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng
mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng.
Nàng biết Gim rất quý mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn
vì nàng cắt và bán nó đi hay không. Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang
đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho
nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không
nói gì cả. Cố trấn tỉnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra,
Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp.
Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không
kém. Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ
quý nhất của anh, để mua lược chải tóc tặng nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu
rằng họ đã tặng nhau những gì quý giá nhất. Họ đã hy sinh tất cả cho nhau.
(Trích ”Món quà Giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
02. TẶNG PHẨM CHÚA MONG ĐỢI
Một đêm giáng sinh nọ,
Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên
Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói
loà. Ngài hỏi thánh nhân :
- Giêrônimô, con có gì
làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?
- Lạy Chúa Hài Đồng,
thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì
khác nữa không ?
- Lạy Chúa, con xin dâng
Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác
nữa không ?
- Con có điều gì khác để
dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo :
- Này Giêrônimô, hãy
dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân
hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?
- Được chứ ! Ta muốn con
dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất
mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật
khóc vì sung sướng. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
03. CHÚA ĐẾN NƠI THA NHÂN
Vào buổi sáng nọ, người
thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho
tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách
đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện
ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ
đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa,
anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến.
Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là
người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay
chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện
run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã
được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào
phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt
trước cửa nhà. Anh gọi nó laị hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và
không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn,
báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về
nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra
nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã
thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với
dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể
chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé.
Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua
mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe
tiếng Chúa nói với anh : “Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã
dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón
Ta ngày hôm nay” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
04. ĐỒNG XU VÔ GIÁ
Tổng thống Wilson Hoa kỳ
là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.
Một lần kia, ông và phu
nhân cùng nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ dừng lại tại một thành phố
thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị
Tổng thống. Thế nhưng không hiểu làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng
rào để đến gần chỗ ngồi của Tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa
vị nguyên thủ quốc gia.
Một cậu đã tặng cho ông
lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn cản, nhưng
bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và nhiệt tình cám ơn em. Cậu bé kia cảm thấy
buồn vì không có gì dâng tặng tổng thống. Em cố moi trong túi quần và cuối cùng
lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống đã chìa
tay đón nhận món quà của em.
Năm năm sau, Tổng thống
Wilson qua đời. Khi Bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở
chiếc ví, bà thấy một bọc giấy được giữ cẩn thận. Cởi bọc giấy, Bà nhận ra ngay
đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu
nhỏ ấy đến độ đi đâu cũng mang nó trong mình. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
05. CON NGƯỜI LÀ KẺ THÙ CỦA CHÍNH MÌNH
Đời nước Tề, có một
người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi.
Ông ta giật mình tỉnh dậy... nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau
ông nói với một người bạn : Từ thuở nhỏ tới giờ, tôi vốn là người trí dũng. Đến
nay 80 tuổi tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm qua có người đến làm nhục
tôi. Tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm cho gặp được người đó, bằng không tôi phải
chết mất.
Thế là ngay sáng hôm ấy,
ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. 5 ngày trôi qua nhưng ông
vẫn chưa tìm được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm
được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả Lamã đã
nói ”Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người
tự tạo cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích ”Món quà giáng
sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
06. TỰ ĐÂM MÌNH
Có hai người kia đều bị
tên bắn. Người thứ nhất bình tỉnh và nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, băng bó vết
thương, vài ngày sau khỏi hẳn. Người thứ hai tức giận, nhổ mũi tên ra nhưng cầm
lấy đâm túi bụi vào mình mẩy của mình, đã thế, khi gặp những người thân anh còn
đâm họ bị thương nữa.
Mũi tên chính là lời công
kích của kẻ khác. Người khôn cư xử như người thứ nhất, nghe xong bỏ đi. Kẻ dại
cư xử như người thứ hai cứ lặp đi lặp lại lời công kích đó và còn thuật đi
thuật lại cho những người thân, làm cho bản thân mình và người thân thêm đau
đớn vô ích.
Trở lại mục lục bài viết
07. SỰ THA THỨ ĐÍCH THỰC
Liền sau thế chiến II
chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ
hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao
giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa
nhựt nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của
thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen
thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác
trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những
tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông
tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói : “Thưa Bà, tôi rất
cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà
Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ
thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng
lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi
kể lại biến cố ấy trong tập sách ”Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết ”Trong giây phút
thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện : Lạy Chúa, Chúa thấy
con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những
tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã
hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương
và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
08. ĐỢI GÌ NƠI CUỘC SỐNG
Vào Tuần Thánh 1980, Đài
phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người
được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một
bệnh viện ở thủ đô Áo quốc. Cô phát biểu : “Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho
biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên
tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gởi đến cho tôi một cơ may mới.
Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ
của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ
của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu
thích nỗi đau khổ ấy”.
Chính vì muốn chấp nhận
đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường Y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình
không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây
viết. Cô giải thích : “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc 100 phần trăm là
tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn
luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý
Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết,
chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở
thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ
mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng
nữa.”
Không khỏi ngạc nhiên
trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi : “ Tôi đọc thấy
trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc
sống này ?”
Cô gái mỉm cười nói :
“Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa.
Chính Ngài đã cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được
với những đau khổ đang đè nặng trên tôi”. (Trích “Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
09. VỊ THƯỢNG KHÁCH
Khi văn hào Maxim Goocky
của Nga viếng thăm nước Mỹ, ông được bạn bè đưa tới một khu giải trí nổi tiếng
ở California. Họ muốn ông chứng kiến cảnh trùng trùng điệp điệp của những đám
đông đến đây nghỉ hè và giải trí. Mỗi ngày ông được đưa đi xem một cảnh quan.
Hôm thì cảnh từng đoàn người nhào lộn với các trò chơi trên không trung. Hôm
thì cảnh đua thuyền trên mặt hồ. Hôm thì viếng thăm các bảo tàng viện nổi
tiếng. Hôm lại đi xem các đoàn xiếc, các vũ nữ trình diễn. Tóm lại, những người
mỹ muốn cho một ông khách đến từ một nước xã hội chủ nghĩa thưởng thức được tất
cả những trò giải trí tại một quốc gia được xem là văn minh nhất thế giới.
Sau một tuần lễ hướng
dẫn vị thương khách du ngoạn và giải trí, người ta hỏi cảm tưởng của ông. Thinh
lặng một chặp, Maxim Goocky phát biểu : “Có lẽ các ông là những người buồn bã
lắm”. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
10. INDIRA TẦM ĐẠO
Indira đến gặp đạo sĩ
Makia và ngỏ lời : “Xin Ngài hãy chỉ cho tôi một thần linh để tôn thờ và một
tôn giáo để sống theo”. Đạo sĩ Makia liền đưa Indira đến một tòa nhà rộng lớn
nơi đó mỗi vị thần được dành cho một gian phòng riêng. Dừng chân đầu tiên trước
tượng thần Batda, đạo sĩ giới thiệu : “Đây là vị thần sẽ cất hết mọi đau khổ
khỏi thế giới.” Nhưng Indira lắc đầu và xin được sang phòng khác. Trước vị thần
thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu : “Đây là nữ thần Sopha có bí quyết giúp con
người tránh được đau khổ.” Nhưng Indira cũng lại xin đạo sĩ đi nơi khác. Cuối
cùng, hai người đến trước một vị thần bị treo trên thập tự giá. Indira tò mò
hỏi : “Vị thần này là ai mà bị treo trên thập tự như thế ?” Đạo sĩ chậm rãi trả
lời : “Đây là thần của những người kitô.” Với chút xúc động lộ trên mặt, Indira
xin đạo sĩ giải thích thêm về những gì cần phải làm để trở thành môn đệ của
Đấng chịu treo trên thập tự. Đạo sĩ ngạc nhiên hỏi : “Này anh Indira, anh làm
tôi thắc mắc. Hai vị thần anh gặp lúc trước, một vị đề nghị cất hết mọi đau
khổ, một vị đề nghị giúp tránh sự đau khổ, thế mà anh không thích vị nào cả.
Tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của vị chết nhục nhã trên thập tự như
thế ?” Indira giải thích : “Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là hứa
suông vì người ta không thể nào cất đi những đau khổ. Và dạy con người tránh
đau khổ là dạy con người sống thấp hèn và người ta cũng không thể nào tránh đau
khổ được. Nhưng nhìn vào vị thần của người kitô chấp nhận đau khổ trên thập tự,
tôi hiểu được ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Rồi một khi người ta hiểu và
chấp nhận đau khổ thì niềm vui và an hòa sẽ trổ sinh trên thế giới này. Đó là
lý do tôi bị thu hút bởi Đấng chịu treo trên thập tự kia và muốn làm đồ đệ
Ngài. Vậy xin đạo sĩ đưa tôi đến nơi người kitô sống để được trở thành người
kitô”. Đạo sĩ dẫn Indira đến nhà thờ những người công giáo để xin lãnh bí tích
rửa tội. Khi vừa bước vào làng thì hai người đã nhìn thấy những cảnh không tốt
đẹp. Đây một nhóm người đang cãi lộn. Nơi khác có những kẻ như sắp đánh giết
nhau. Nơi khác nữa thì nghe vẳng lại những lời tục tĩu vô lễ. Bảng ghi ”Coi
chừng bị móc túi” được dán nơi công cộng. Indira hỏi đạo sĩ : “Đây là đâu vậy
?” Đạo sĩ trả lời : “Đây là làng của người công giáo.” Nghe thế, Indira vội vã
nói : “Thôi, chúng ta hãy đi nơi khác. Tôi mộ mến và tin vào Đấng chịu đóng
đinh trên thập giá. Nhưng tôi không muốn trở thành một người kitô nữa. (Trích
”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
11. CỬA SỔ HOẶC TẤM GƯƠNG
Một người do thái giàu
có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho
cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh đến bên cửa sổ và nói : “Ông hãy
nhìn qua cửa sổ và tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có
trả lời : “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người
giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi
ông cũng đặt câu hỏi tương tự : “Nào, bây giờ ông thấy gì trong tấm gương ?” -
”Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi”.
Bấy giờ vị giáo trưởng
mới rút ra một bài học : “Này nhé, tấm gương được làm bằng kính, phía sau phủ
một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đàng sau tấm kính thì nhìn
vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi.
Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ, ông đã thấy được những
người khác. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
12. CHÚA NHẬN LỜI AI
Chỉ còn hai người sống
sót sau một vụ đắm tàu. Sáng hôm sau hai người này lên được một hòn đảo hoang.
Trước khi bị đắm tàu họ
đã tranh luận với nhau về việc cầu nguyện, nên giờ đây hai người đánh cá với
nhau xem ai sẽ được Chúa nhận lời khi cầu nguyện. Họ chia đảo nhỏ ra làm hai
phần để dễ kiểm chứng lời cầu nguyện của ai sẽ được chấp nhận.
Lời cầu mà hai người
đồng ý trước hết là cầu cho có thức ăn. Sáng hôm sau, người thứ nhất thấy nơi
phần đảo của mình có những cậy ăn trái nặng trĩu những trái thơm ngon. Còn bên
phần đất của người thứ hai thì không có gì cả.
Một tuần lễ sau, người
thứ nhất cầu nguyện cho có người nữ nào đó đến để cưới làm vợ vì anh ta cảm
thấy cô đơn. Sáng hôm sau, có tàu bị đắm gần đấy và chỉ có một phụ nữ sống sót
dạt vào bờ bên phần đất của anh. Thế là người thứ nhất lập gia đình với người
nữ ấy và rồi xin cho có con cái, nhà cửa. Anh được như ý. Nhưng bên phần đất
của người thứ hai thì vẫn chưa thấy gì cả.
Cuối cùng người thứ nhất
cầu nguyện xin cho có tàu đến để đưa về đất liền. Anh cũng được như ý nguyện vì
vài hôm sau có tàu hàng đi qua ghé vào đảo.
Khi người thứ nhất vui
mừng bước lên tàu với vợ con thì bỗng nghe một tiếng lạ từ trời phán xuống :
“Còn người thứ hai kia thì sao ? Con bỏ anh ta lại hoang đảo này một mình à ?”
“Thưa Ngài, người thứ nhất nhanh nhẹn trả lời, đây là kết quả những lời cầu
nguyện của riêng tôi. Anh kia cũng cầu nguyện nhưng không được gì cả thì anh
đành phải chịu vậy chứ sao !” Tiếng từ trời phán tiếp : “Con lầm rồi. Ta đã
nhận lời cầu nguyện của anh ta chứ không phải lời cầu nguyện của con”. Người
thứ nhất thắc mắc hỏi lại thì được trả lời : “Con muốn biết anh ta cầu nguyện
thế nào ư ? Phải, ngày đêm anh ta đã không ngừng lặp lại với Ta rằng” Xin Chúa
nhận lời cầu của anh bạn con”. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
13. ÔNG HOÀNG VÀ TƯỚNG QUỶ
Một ông hoàng kia rất
đạo đức. Ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh. Nhưng một hôm
ông quên. Thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức
mình là Satan, ông hoàng ngạc nhiên. Quỷ liền nói : “Tôi là ai, điều đó không
quan trọng. Việc tôi đánh thức ngài là điều tốt. Ngài thấy không, ai làm việc
lành cũng là người tốt cả.” “Nhưng không bao giờ quỷ làm điều tốt. Vậy nhân
danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta.” Bấy giờ quỷ buộc
lòng phải nói thật : “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng thì khi thức dậy
ngài sẽ hối hận rồi khiêm tốn sửa chữa đề sống đạo tốt hơn. Còn ngày nào ngài
cũng tỏ ra sốt sắng thì ngài sẽ kiêu căng tự mãn cho là mình đạo đức đủ rồi.”
(Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
14.CHÚ HEO VÀ CHỊ BÒ
Một người nọ thật giàu
muốn gì cũng có. Tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những
cái nhìn soi bói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một
người nổi tiếng khôn ngoan : “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi
cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn ? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ
hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho công việc từ thiện”. Để trả
lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện nhỏ như sau : một chú heo than
thở cùng chị bò cái : “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài
người. Thế mà tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi ?” Ngẫm nghĩ giây lát,
chị bò cái trả lời : “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta
chết. Còn bây giờ có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống nên họ quý mến
tôi hơn đấy chăng.” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
15. GIẤC MƠ HÃI HÙNG
Người kia kể lại giấc mơ
khủng khiếp như sau : Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào
trong tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ ”Bên phải dành cho người công
giáo ; bên trái dành cho kẻ ngoại”. Tôi đi theo hàng lang bên phải. Đi được một
lúc tôi tới ngã rẽ khác, lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau ”Bên phải
dành cho người có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém”.
Tôi lại đi theo bên phải. Đến một ngã rẽ khác, tôi loại thấy bảng chỉ dẫn ”Bên
phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những kẻ ích kỷ”.
Tôi lại chạy qua bên phải. Cuối cùng tôi gặp bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho
những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi”. Một lần
nữa, tôi chọn bên phải. Tôi đang hân hoan rảo bước thì bỗng một cảnh tượng hãi
hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy : cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình
khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức dậy. Sau
một phút, tôi tự hỏi” Phải chăng cuộc sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi
hùng ?” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
16. CHỖ Ở CỦA CHUỘT
Có một con chuột sống
trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng
gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự : “Tôi sống
chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc
nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.” Nghe thế, con chuột kia nói
: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có
người quấy rầy, yên tĩnh lắm.” Ô thế bạn ở đâu vậy ?” “Tôi ở trong thùng tiền
cứu giúp người nghèo.” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
17. NẾU TIN, HÃY BUÔNG TAY RA
Một người vô thần rất mê
leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông
bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn
biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông : Tại sao không gọi Chúa đến cứu
giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn : “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn
bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần
nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn : “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa
hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác
cũng tin Chúa.” Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang
dậy cả vực thẳm và núi cao : “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.”
“Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa
không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin
Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.”
Tiếng ấy trả lời : “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông
tay ra.” Người vô thần thất vọng thốt lên : “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi
điên sao !” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
18. LỜI KINH ĐẸP NHẤT
Có một người nông dân
nghèo khó nhưng đạo đức. Đi đâu anh cũng mang theo người cuốn sách kinh. Nhưng
một buổi chiều nọ, trên đường từ chợ về nhà, anh không còn thấy quyền sách kinh
trong túi của mình nữa. Anh bối rối vô cùng vì đã đến giờ cầu kinh mà anh lại
không nhớ bất cứ lời kinh nào cả.
Suy nghĩ mãi, cuối cùng
người nông dân ngước mắt lên trời cầu nguyện mà không có quyển sách kinh trước
mắt. Anh cầu nguyện như sau : “Lạy Chúa, con đã phạm một điều thật đáng trách.
Sáng nay con vội vã ra đi mà không mang theo quyển sách kinh. Mà trí nhớ của
con tồi tàn, đến độ đã bao năm trời cầu kinh mà con không nhớ được một kinh nào
cả. Xin cho phép con được làm như thế này : Con xin đọc chậm rãi mỗi lần 5 mẫu
tự. Và Chúa là Đấng quen thuộc những kinh đọc của con, xin Chúa hãy thêm các
chữ khác vào. Và như thế các lời kinh của con được hoàn tất.
Nghe thế, Chúa liền nói
với các Thiên thần : “Trong tất cả những lời kinh mà ta nghe đọc hôm nay, đây
là lời cầu nguyện đẹp nhất vì nó xuất phát từ một tấm lòng đơn sơ và chân
thật.” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
19. TỘI VÔ TÌNH
Một bề trên tu viện công
giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bày về tình
trạng bi đát của tu viện ông :
Trước kia tu viện này là
một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát
của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào
tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi
chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật
là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn
giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng
trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo : “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn
đó là tội vô tình.” Và ông giải thích : “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một
người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài.”
Nhận được lời giải đáp,
vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ
biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to
đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc
là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người
trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người
đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương
huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại
tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia
nhập cộng đoàn. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
20. NƯỚC MẮT SÁM HỐI
Người Hồi giáo có chuyện
sau đây : Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có
điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường
nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu
mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo : “Máu
đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều
tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng
thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất
quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông
hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương
thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng
xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói : “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong
những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái
gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần
đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ
ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước
những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích : “Tôi đã chìu
theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về
trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói : “Thế là
ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp
và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng
sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa
xuân ấm áp của tình yêu. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
21. CON SÂU TRONG TẢNG ĐÁ
Một hôm Đức Ala gọi một
Thiên sứ đến và truyền lệnh : “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người
đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang
cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên
Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách
lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng
mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala
mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác,
nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh
chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc.
Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi,
sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra.
Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên : “Ôi lạy Đấng tối
cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí
và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia,
thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.”
(Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
22. VỊ THÁNH LÀ AI ?
Ngày kia một em bé theo
mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai mẹ con đi qua một thánh đường nguy nga. Em bé
ngước nhìn thánh đường rồi đưa tay chỉ mẹ và nói : “Mẹ xem kìa, những cửa kính
màu bám đầy bụi, trông chả đẹp tí nào.”
Bà mẹ không nói gì,
nhưng lại nắm tay con dẫn vào bên trong thánh đường. Từ bên trong thánh đường
nhìn ra, những cửa kính dơ bẩn xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu
sắc tuyệt đẹp. Em bé ngạc nhiên mở to mắt nhìn. Em thích thú đặc biệt khi ngắm
nhìn 4 vị thánh trên cửa kính sau bàn thờ đang rực rỡ chói lòa nhờ ánh mặt trời
chiếu thẳng qua.
Vài ngày sau, trong một
lớp giáo lý, tình cờ cô giáo hỏi : “Các em có biết vị thánh là ai không ?”
Trước câu hỏi bất ngờ, cả lớp đều thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào nhà
thờ hôm trước giơ tay xin trả lời. Em nói : “Thưa cô, vị thánh là người được
ánh sáng mặt trời chiếu qua.” (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Trở lại mục lục bài viết
23. NGƯỜI QUÉT LÁ RỪNG
Có một người làm công,
ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một
đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng
ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng
một tháng.
Sau một hồi vãng cảnh,
đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị
hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch
cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo
truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có
một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập
dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ
thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu
bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng
tanh... Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố
nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm
ra nguyên nhân : do người phu quét là rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống,
gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây
nên tình trạng ô nhiễm...
Và ngay hôm đó họ tái
dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
24. CÁI LƯỠI
Khi còn là nô lệ, triết
gia Esope được chủ sai đi mua một thức ăn ngon nhất. Ông mua toàn lưỡi heo đem
về làm thức ăn. Người chủ lấy làm lạ hỏi lý do. Ông đáp : “Lưỡi là chìa khóa
của tất cả những lý lẽ của sự thật, nhờ nó mà con người được địa vị cao sang,
được nhiều người kính nể trọng vọng”.
Lần khác, người chủ sai
ông ra chợ mua thức ăn nào dở nhất. Lần này ông cũng mua toàn lưỡi heo. Ông chủ
ngạc nhiên hỏi tại sao. Ông đáp : “Nếu nói về cái quý thì không gì quý hơn
lưỡi, nhưng tìm cái xấu thì không gì xấu hơn lưỡi” (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
25. LẤY ƠN BÁO OÁN
Có hai người thổ dân Nam
phi rất ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù
mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra.
Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi
vừa la lớn : “Trả được thù rồi”.
Ngày qua tháng lụn, thấm
thoát mười mấy năm, cô gái đã có chồng con. Một hôm có một tên ăn mày tới xin
ăn. Người đàn bà nhận ra đó là kẻ chặt tay mình, vội vàng trở vào nhà biểu đầy
tớ đem sữa bánh ra cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt
ra cho hắn coi và nói : “Tôi cũng đã trả được thù rồi”. Tên ăn mày xúc động
khóc ngất. Riêng bà kia vì đã trở lại đạo nên hiểu rằng” Nếu kẻ thù mình đói,
hãy cho nó ăn, khát hãy cho nó uống...” (Rm 12,20)
Có thể coi đó là hai
cách trả thù : cách của người ngoại giáo, và cách của người công giáo. (Trích
”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
26. DƯ LUẬN
Hai cha con một bác nhà
quê dắt con lừa đi ra tỉnh. Mới đi được một quãng thì gặp một người hỏi : “Chà,
sao ông không để cho con ông cỡi con lừa ?” - ” Ô tôi chưa nghĩ tới điều đó”.
Nói xong ông bồng con cho ngồi lên lưng lừa. Đi được một lát lại gặp người khác
nói : “Sao mầy ngồi trên lưng lừa mà để cho ông già đi bộ ? Mày xuống ngay đi
cho cha mầy cỡi.” - ”Phải đấy.” Đứa con vội nhảy xuống đất đỡ cha mình lên lưng
lừa. Đi thêm một đỗi nữa họ gặp một mụ bán cá, mụ kêu lên : “Ông không mắc cỡ
à, sao lại để thằng bé phải đi bộ dưới trời nắng như thế ?” - ”Chị nói phải
đấy.” Ông già tuột xuống khỏi lưng lừa và hai người tiếp tục đi bộ như trước.
Khi sắp vào thành phố, có mấy người nhìn chăm chăm và nói : “Sao hai cha con
không biết cỡi lên lưng lừa mà đi cho khoẻ ? Hai cha con nghe chí lý liền leo
lên. Nhưng con lừa mới đi được mấy bước đã quỵ xuống vì không chịu nổi sức
nặng. Hai cha con lại vội vả xuống đi bộ và dắt lừa đi như trước. (Trích
”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
27. GIÁ TRỊ CỦA MỘT NGƯỜI BẠN TRĂM NĂM
Một thanh niên đến gặp
Cha Sở để xin học Giáo lý hôn nhân. Cha hỏi :
- Người vợ sắp cưới của
con như thế nào ?
- Thưa cha, cô ta đẹp
lắm.
Cha sở liền viết một con
số không lên tờ giấy trước mặt.
- Rồi thế nào nữa con ?
- Thưa Cha, cô ta thuộc
một gia đình giàu có.
Cha sở viết thêm một con
số không nữa.
- Rồi sao nữa con ?
- Cô ta rất đảm đang cha
ạ.
Lại thêm một con số
không nữa.
- Còn gì nữa không con ?
- Thưa cha, cô ta thông
minh lắm.
Thêm một con số không
khác.
- Còn gì nữa không con ?
- Thưa cha, cô ta rất
đạo đức.
Cha sở mỉm cười nhìn
anh, và sung sướng viết một con số một trước những con số không vừa rồi, rồi
nói :
- Cha chia vui với con
vì con đã chọn được người bạn đời xứng đáng. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
28. LỜI KHUYÊN BẰNG VÀNG
Một Cha sở già kia có
nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau : “Khi các con thấy
trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau : “Để sáng mai rồi hãy
gây gỗ”. Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không
đáng gây gỗ chút nào. Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài
một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm
nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình.
(Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
29. CHẲNG CẦN PHẢI XÉT MÌNH
Trong lúc cha con nói
chuyện, một người bổn đạo nói với Cha sở của mình
- Khi đi xưng tội, con
không cần ngồi lâu ở nhà thờ để xét mình.
- Sao thế, vậy anh làm
thế nào để nhớ được mọi tội đã phạm ?
- Con chỉ cần nói chọc
vợ con một câu thì nàng sẽ nổi sùng lên và đọc cho con nghe một lô các thứ tội,
cả những tội con không phạm. Con chỉ việc lắng nghe, tội nào có thì nhớ lấy,
tội nào không thì loại ra. Thế là xong công việc, vừa mau lại vừa đúng sự thật
nữa. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
30. LÀM THẾ NÀO CHỊU THẾ ẤY
Một Cha sở ở miền núi
trước khi lên giường ngủ quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa và cầu nguyện.
Đêm yên lặng, những nấm mộ chập chờn trong bóng tối, những cây thánh giá lô nhô
trong nghĩa địa. Tất cả những cái đó làm cho ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một
đêm kia ngài nghe có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Trong bóng tối ngài thấy
một hình người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ
trộm ? Một tên điên ? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một cây, ngài thấy rõ người
lạ mặt đến quỳ trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết : “Cha ơi, cha có tha cho
con không ? Cha nói đi, cha nói đi”.
Cha sở nhìn kỹ và biết
đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha
phiền muộn quá đến chết đi.
- Ồ con, con còn bị cắn
rứt không thể nào ngủ được sao ?
Người bổn đạo khiếp sợ
quá nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói :
- Thưa cha, con không
được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
- Con biết con đã xử tệ
với cha con, con cái của con cũng sẽ xử tệ với con như vậy. Ngày mai con hãy
đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm.
10 năm sau, người bổn
đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép
mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa. Ôi các bạn trẻ, đừng bao
giờ quên truyện này. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
31. KHÔNG THẬP GIÁ NÀO KHÔNG ĐÒI HỎI
Có một người kia được
Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa
cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng : “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá
đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tùy thích.” Dưới ánh trăng mờ trên
nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay
chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được : cây thì quá dài, cây thì quá
ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá...
Và rồi đêm nào cũng thế.. cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý
nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó
chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào ! (Trích
”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
32. BA ĐỒNG TIỀN VÀNG
Thời trung cổ, có một vụ
hành quyết tội phạm tại một thị trấn kia. Theo phép nước, chỉ có mỗi một lối
thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ
ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo. Hoàng hậu theo gương tặng 200
đồng. Các quan cũng dốc túi... Người ta đếm được tất cả 997 đồng, còn thiếu 3
đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành án lệnh. Toán hành
quyết tròng giây thừng vào cổ tử tội, sửa soạn rút giây. Bỗng một tiếng kêu lớn
“Khoan đã, lục soát người nó đi. Biết đâu đấy”. Tên đao phủ lần giây lưng tội
nhân, móc ra được 3 đồng tiền vàng hắn giấu kỹ từ trước...
Bài học rất dễ hiểu :
Vua là Chúa cứu thế, hoàng hậu là Đức Maria, các quan là các thánh và các kitô
hữu chân chính... Tất cả đã quyên góp thành một kho báu cứu độ. Dẫu sao vẫn
thiếu một ít. Mỗi người chúng ta phải đóng góp bằng thiện chí của mình dù là
một chút, để chắc tâm thực hiện được cuộc” vượt qua” từ đời sống tội lỗi lên
đời sống thánh thiện. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
33. CHIẾC QUAN TÀI NHỎ
Ở Tô Châu có một nhà sư
tên là Viên Thủ Trung. Để răn mình và cảnh giác những khách đến viếng Chùa, ông
cho làm một chiếc quan tài nhỏ xíu dài 3 tấc có nắp đậy và mở ra được, rồi để
trên bàn ở phòng tiếp khách. Khách đến viếng chùa người nào cũng xem và tò mò
hỏi. Nhà sư giải thích : “Có sống tất phải có chết, rồi ai cũng phải chui vào
cái hòm này. Nhưng trong thực tế thiên hạ ít ai nghĩ tới, chỉ ham mê mải miết
bận bịu với danh vọng, tiền của, nhan sắc... là những thứ chẳng bao lâu sẽ biến
thành mây khói. Phần tôi, mỗi khi bị thế tục ám ảnh và lôi cuốn, khi nhìn vào
quan tài nhỏ này, tôi cảm thấy một sức mạnh lạ lùng đủ chặn đứng mọi cám dỗ và
tâm hồn lại được nhẹ nhàng thảnh thơi.
Thánh Kinh cũng ghi :
Hãy năng nhớ đến sự chết thì con sẽ không phạm tội. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
34. CHẦN CHỜ
Ngày kia Satan họp các
đồ đệ bàn tính kế hoạch :
- Làm thế nào để chiếm
đoạt được các linh hồn ?
- Tôi sẽ rỉ tai họ rằng
”Không có Chúa. Không có Chúa”, con thứ nhất trả lời.
- Họ đâu có tin. Nhìn vũ
trụ, họ không thể nào chối có Chúa được.
- Tôi sẽ rỉ tai họ ”Chết
là hết. Chết là hết”.
- Than ôi, sự đời đời đã
được khắc sâu vào chính giữa trái tim của con người.
Satan và các đồ đệ trầm
ngâm nghĩ ngợi. Bỗng một con quỷ khác đứng dậy
- Tôi sẽ nhắc đi nhắc
lại cho loài người rằng Chúa có thật và chết là chưa hết đâu. Tôi lại còn nói
với họ hãy ăn năn đền tội và trở lại với Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ” Gấp gì,
còn chán thời giờ. Gần chết hẳn ăn năn tội, đợi khi nguy hiểm tới rồi hẳn lo
phần hồn cũng chưa muộn gì”.
Quỷ vương Satan cười ha
hả :
- Tuyệt, tuyệt ! Theo kế
hoạch này, thế nào chúng ta cũng thành công (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
35. CHA MAXIMILIEN KOLBE
Một buổi sáng cuối tháng
7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục,
10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững,
khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên ”Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dãy tù nhân
xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa
quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía
viên trưởng trại. Mọi người nín thở : chuyện chưa từng có ! Viên trưởng trại
đặt tay lên súng :
- Anh muốn gì ?
- Tôi muốn chết thay một
người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng
sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay
cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại
nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó là Maximilien Kolbe, một
linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh ngày
10.10.1082 tại Rôma. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
36. CON TIM RỘNG MỞ
Năm 1597 lệnh bắt đạo
trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị
triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.
Tại vùng Odawara,
Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều
ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một
mẫu ảnh thật kỳ cục : người gì mà để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho
uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt
vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý
nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà
quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ
sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới
bức ảnh mấy chữ : “đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả”
Từ đó Tsukamoto đặt bức
ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki
đến chơi, thấy vậy hỏi :
- Thế nào, bạn lại thích
ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?
- Đứng về mặt chính trị
của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo
thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình
và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với
thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì ”Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì ”Vô Tâm”.
Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của
mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ,
đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra
giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của
Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão,
mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy
phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới,
không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy. Osaki cảm
phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo công giáo lại hàm chứa một triết lý
nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và
đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục...
(Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
37. NGƯỜI THUYỀN TRƯỞNG
Có một thuyền trưởng ghé
tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu
để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam
châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng
lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất
bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu.
(Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
38. RƯỢU
Ngày xưa có một con quỷ
hiện về báo cho người đàn ông kia biết gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó
có thể cứu gã nếu gã chịu làm một trong 3 điều sau : một là giết tên đầy tớ của
gã, hai là gã hãy đánh đập vợ, ba là gã hãy uống rượu
Gã kia nghĩ : Ta không
thể giết tên đầy tớ trung thành, đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi
gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá, gã đánh vợ. Tên đầy tớ nhào vô can bị hắn
cho một dao chết tốt. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
39. THA HẾT MỌI TỘI
Ngày kia thánh Phanxicô
Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhượng và
hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi :
- Bây giờ cha biết tất
cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con ?
- Bây giờ cha nhìn con
như một đấng thánh.
- Chắc cha phải nói
ngược lại mới được.
- Không. Cha nói theo
lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
- Nhưng tội lỗi con đã
phạm thì luôn luôn ở với con mà.
- Không phải thế đâu con
ạ. Khi bà Mađalêna đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có
bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
- Nhưng đối với cha, con
muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con ?
- Cha không nghĩ thế nào
cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi
khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên
trời vui mừng với con.
Nói xong, thánh nhân
khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi :
- Cha khóc à ? Chắc cha
khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá ?
- Cha khóc vì thấy con
đã sống lại với Chúa.
Thánh nhân biết rõ phép
Giải tội không phải là che dấu tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta
đã khiêm nhường xưng ra. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
40. TÁI ÔNG THẤT MÃ
Ngày xưa có một ông lão
ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông
đáp : “Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may.” Vài ngày sau, con ngựa cũ
trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông
nói : “Chưa hẳn được ngựa là may đâu.” Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay,
liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui
xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình
ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng
trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được
một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình
ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
41. GIẾT CHÓ KHUYÊN CHỒNG
Ngày xưa nhà nọ có hai
anh em. Người anh thì giàu có, người em thì nghèo túng. Người anh không ngó
ngàng gì đến em, chỉ lo cờ bạc rượu chè. Tuy không được anh giúp đỡ, người em
không chút oán giận. Tuy nhiên người vợ thấy thế lấy làm bất bình khuyên chồng
phải biết nghĩ đến em. Thế nhưng người chồng gạt ngang nói : “Ai có thân thì lo
lấy. Còn tôi giao du với chúng bạn đều là người tốt cả”.
Vợ biết khuyên chồng
không được liền nghĩ ra một kế : một hôm người chồng đi vắng, vợ ở nhà bắt một
con chó đập chết rồi bó chiếu đem ra để ở góc vườn. Tối đến khi chồng về, vợ
giả vờ sợ hãi nói : “Ban trưa lúc mình vắng nhà, có thằng bé ốm yếu vào xin ăn.
Tôi mắc bận chưa kịp cho thì nó kêu chửi ầm ầm. Tức mình tôi lấy đòn gánh đập
nó một cái, chẳng may nhằm chỗ nghiệt, nó ngã lăn ra chết. Sợ quá tôi lấy chiếu
bó nó lại để ở ngoài vườn kia. Bây giờ mình tính sao ?”
Chồng nghe nói hốt hoảng
chạy đi tìm những bạn thân xưa nay trình bày sự việc mong họ giúp đỡ. Nhưng
người nào cũng viện cớ thoái thác. Người chồng thất vọng trở về nhà. Vợ nói :
“Đâu mình chạy sang chú nó coi, xem chú có giúp mình được chăng”. Người anh
sang gọi. Đứa em sang giúp ngay mà không phiền hà gì cả. Lúc em về rồi, vợ bảo
chồng : “Anh xem đấy, lúc hoạn nạn có bạn bè nào đến giúp anh không ? Chỉ có
mình chú nó thôi. Phải nhớ câu ”một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Người chồng
hối hận về cách đối xử với em mình.
Hôm sau có mấy người bạn
tới giở trò làm tiền. Người chồng toan đưa, nhưng người vợ nhất định không
chịu, nên họ đi tố cáo gia đình anh giết người. Quan liền đòi vợ chồng anh đến.
Lúc quan hỏi, người vợ mới thành thật thưa rõ đầu đuôi. Quan cho lính quật mồ
lên thì quả nhiên là xác một con chó mực. Quan liền ra lệnh cho lính đánh đòn những
người bạn xấu bụng và khen ngợi người vợ đã khéo khuyên chồng. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
42. CHIẾN DỊCH BÀI SẺ
Vua nước Đức Frederic tự
cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp
mới khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng
tính đi tính lại : Cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết 2 triệu thùng thóc trên toàn lãnh
thổ. Vì thế ông truyền phát động chiến dịch bài sẻ. Giết được một chim sẻ là
được một phần thưởng. Toàn dân hưởng ứng nhiệt liệt vì thấy công việc dễ dàng
và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số khác bay về một phương
trời xa. Cuối cùng chẳng còn thấy một mống nào trên toàn lãnh thổ Đức quốc.
Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành công rực rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa
khi ngày mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đâu từng bầy sâu bọ
đua nhau kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh
thổ, không cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng
lòng buồn ủ rũ chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
43. BA NGƯỜI BẠN
Người kia có 3 người
bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày
kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ
nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng
đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông
yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những
trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là
Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và
một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt
rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và
đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
44. MẶT TRỜI
Bạn biết gì về Mặt Trời
của chúng ta ?
- Đường kính dài
1.390.000 km. To hơn trái đất 1.301.200 lần.
- Nhưng mặt trời còn nhỏ
hơn nhiều vì sao khác, như sao Antarès lớn hơn trái đất một tỉ lần.
- Sự sáng và sức nóng
mặt trời hơn gấp triệu lần các vật ta có thể đốt cháy như dầu, than, củi...
- Hiện tại sức nóng
trung bình cho trái đất là 15oC. Nếu sức nóng lên tới 20oC ở khắp nơi thì nước
đá ở 2 cực trái đất sẽ tan, biển thêm nước và sẽ tràn vào lục địa. (Trích
”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
45. BẠN CÓ BIẾT
Trái đất hiện nay quay
với tốc độ 1600 km/giờ. Nếu quay chậm đi 10 lần thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ
dài gấp 10. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô, còn lại bao nhiêu thì cũng bị
chết cóng.
Mặt trời có nhiệt độ
1500 triệu độ. Trái đất cách quảng xa vừa đủ để chúng ta được sưởi ấm. Nếu giảm
đi một nửa thì ta sẽ bị chết cháy, mà nếu tăng lên một nửa thì ta sẽ bị chết
cóng.
Trái đất phải ở vị trí
hiện nay nghiêng 23 độ thì mới có 4 mùa xuân hạ thu đông và 2 cực mới khỏi bị
chồng chất băng.
Nếu mặt trăng ở gần lại
80.000 km thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ lục địa 2 lần và cuốn trôi mọi vật
ra biển.
Nhờ viễn vọng kính người
ta đếm được 2 ngàn triệu ngôi sao. Đó là chưa kể hàng tỉ ngôi sao khác ở quá xa
không thể đếm được.
Vận tốc của ánh sáng là
300.000 km/giây. Vậy mà từ mặt trời tới trái đất, nó phải đi mất 6 phút 20
giây. Nhưng nếu từ trái đất vượt qua Thái dương hệ đến một ngôi sao gần nhất
thì phải mất tới 4 năm. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
46. GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Đem phân chất một người
nặng 70kg sẽ thấy :
- Mỡ : đủ làm 7 cục xà
bông
- Nước : 40 lít
- Lân tinh : đủ chế tạo
2100 que diêm
- Than : đủ làm 7 cây
đinh 3 phân
- Vôi : đủ quét trắng
một căn phòng nhỏ
- Lưu huỳnh : Đủ để giết
chết bọ của một con chó
- Oxy : Đủ bơm một trái
banh.
Nếu không nhận con người
có linh hồn thì giá trị con người chỉ có thế này thôi sao” (Bác sĩ Clauber)
(Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
47. CON NGƯỜI
Trên đầu con người có
chừng 120-150 ngàn sợi tóc
Da chứa được 2 triệu lỗ
chân lông.
Trong da có 3,5g sắt,
7,5g kẽm, một ngày nước tiết ra là 3 lít.
Óc có 9 tỉ tế bào, nặng
1361g, và nằm trong một dung tích độ 2,1 phân khối.
Lưỡi chịu đựng sức nóng
tới 75 độ.
Máu lưu thông trong
huyết quản với tốc độ 50km/giây.
Một giọt máu chứa 5
triệu hồng huyết cầu, 7000 bạch huyết cầu.
Nếu đem các đường máu
trong cơ thể chắp nối lại sẽ dài 560.000 km.
Tim là bộ máy tốt nhất
trần gian. Nó có thể chạy đều trong một thời gian là 62 năm và đập được 2 tỉ
500 triệu lần.
Phổi : Bên trái luôn nhỏ
hơn bên phải. Số máu trong phổi chừng 2 lít. Trong khoảng 24 giờ, ta hít không
khí vào 23.000 lần.
Toàn bộ xương có 280 đốt
với những hình thể khác nhau. Muốn biết sức nặng của bộ xương, ta lấy sức nặng
của toàn thân chia cho 9,125.
Điện lực trong con người
có thể thắp một bóng đèn 25W trong 3 phút. Sức nóng tiết ra một giờ có thể đun
sôi một số nước đủ pha 4 bình trà.
Người ta có cả thảy 11
giác quan. Ngoài 5 giác quan quen dùng, còn có giác quan về đói khát, khí hậu,
thăng bằng, đau và bắp thịt căng dãn. (Trích ”Phúc”)
Trở lại mục lục bài viết
48. THIÊN CHÚA CẦN CON
Trên một chuyến tàu
xuyên đại dương, vị giám mục kể cho một giáo sĩ trẻ mới ra trường về cuộc đời
gian khổ của mình, rồi xin anh nói về ơn gọi của mình. Anh tự mãn trả lời : “Dễ
thôi. Tất cả là Thiên Chúa cần con”.
Vị giám mục nói : “Này
bạn trẻ, quả là trùng hợp ! Như tôi nhớ, trong Thánh Kinh, chỉ có một lần Thiên
Chúa nói Ngài cần một điều gì đó. Trong Lc 19, 34 trên đường vinh thắng vào
Giêrusalem, Ngài nói Ngài cần một con lừa”.
Trở lại mục lục bài viết
49. LO CẦU NGUYỆN
Một tài xế xe buýt và
một linh mục chết cùng lúc. Bác tài thì được vào thiên đàng ngay, còn vị linh
mục phải chờ ở luyện ngục. Ngài than phiền : “Việc ông tài vào thiên đàng tôi
chẳng nói làm gì. Nhưng tôi là linh mục, tại sao tôi lại phải chờ đợi như thế
này ?” Từ trời cao có tiếng đáp : “Cha ơi, khi cha giảng, mọi người ngủ gục.
Còn khi bác tài lái xe, mọi người lo cầu nguyện”.
Sưu
tầm