1. Cái chết
2. Bốn bà vợ
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
5. Thân xác và linh hồn - John W. Martens
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn - Hiền Lâm
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
13. Lễ CÁC ĐẲNG - Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
14. Nguồn nước mắt - ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
16. Luyện ngục
17. Nghĩ về sự chết - ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
18. Luyện ngục
19. Bóng câu cửa sổ
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
21. Bên kia sự chết
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn - JK
23. Các tín hữu đã qua đời.
24. Các linh hồn
2. Bốn bà vợ
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
5. Thân xác và linh hồn - John W. Martens
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn - Hiền Lâm
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
13. Lễ CÁC ĐẲNG - Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
14. Nguồn nước mắt - ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
16. Luyện ngục
17. Nghĩ về sự chết - ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
18. Luyện ngục
19. Bóng câu cửa sổ
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
21. Bên kia sự chết
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn - JK
23. Các tín hữu đã qua đời.
24. Các linh hồn
Hôm nay chúng ta tụ tập trong
nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất
nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng
ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự
chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có
tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn
và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người
ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những
người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ
chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó
thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu
chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức
tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là
một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết
hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa
đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm
gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và
thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu
trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã
từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay
cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối,
không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn
chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên
tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm
quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn
ngoan. Trong
mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời.
Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối
với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề
ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống
thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ
cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với
những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những
kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay
không?
Nếu trong cuộc sống trần gian,
chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng
Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và
ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên
Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta
không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết.
Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất
trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần
xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn
của Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà
vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ
nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang
trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung
tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều
chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh
doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe
bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của
ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù
lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì
bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy
yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương
ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành
hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không
từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng
can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại
chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát
bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết
mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối
cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng
lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là
người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về
bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường
em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội
vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm
tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm
hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh
về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc
sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ
cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ
bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi.
Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua
tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú
gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em
là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng
em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em
có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em
lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang,
nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ
anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn
trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt
vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế
giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn
ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của
chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn
theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả
cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia
mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã
Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của
đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất
- thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng
bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức
tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi
mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ
thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào
ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà
vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng,
bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào
thiên thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi
hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng
Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca
kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền
thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi
ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu
tan.
Phúc thay người được Chúa Trời
nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa
họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan B.
Nguyễn Đình Lưu)
"Con hãy nhớ đến mẹ mỗi
khi dâng thánh lễ". Lời thánh Monica cũng chính là ý
nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của
các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: "Những đứa con
hiếu thảo". Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn.
Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có
với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để
bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc,
dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là
những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt
vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn
tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để
đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng,
tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc.
Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm
làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung
để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa
với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh
phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn
phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân
cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng
được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít
người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà
Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu
thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một
lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là
chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ
bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay
yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức
khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại
còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay,
chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại
chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự
thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những
héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình
ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
"Con cò lặn lội bờ ao,
gánh gạo nuôi chồng..."
hay:
"Cha mẹ thương con như
biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng
tính ngày".
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn
to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy
dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm
một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc
đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số
phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ
tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó
là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh
phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông
cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo
hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều
việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà
chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho
các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành
thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm
cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của
chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi
chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa,
các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn
đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử
thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự
tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các
Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng
xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên
Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là
để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì
Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và
trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới
răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức
Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa
sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin
tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời
gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối
cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng
dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh
thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông
bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các
đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn
biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã
qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh
lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà
thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn
Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên
đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật
bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ
quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái
chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài
trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước
khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các
đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó,
không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện
cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí
nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường,
nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu
tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ
tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia
đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi.
Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ
mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái
chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người
con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường
hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các
cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái
chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang
tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người
ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả
thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống
con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no
đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá
thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn
đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công
việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là
quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi
lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình
cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối
bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người
lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không
ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng
bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự
sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô
Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian,
để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha
với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý
nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là
cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc
đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái
chết.
5. Thân xác và linh hồn - John W. Martens
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
"Ta sẽ cho họ chỗi dậy
trong ngày sau hết" (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ
xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu,
khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng
ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ
xảy ra. Khi chúng ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều
thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi
còn nhỏ tôi vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết,
tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã
được quyền năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan
điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng
ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn
chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc
sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi,
là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới
cách rời rạc, và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống
chúng ta sau khi chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần
dần.
Những người Do Thái cổ đại
không đặt trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện
sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống
trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ
thể có đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa,
người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi
bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục
sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân
Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc
tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về
số phận muôn đời của người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư
tưởng, tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng
ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng
nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả
sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước
công nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến
"linh hồn những người công chính" đã chết. Tác giả viết "Linh
hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được
nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải
điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng
thật ra họ đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng
thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn
bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện
diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của
Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn
dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3,
7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương
quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi
người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô
nơi thân xác họ. "Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như
người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như
Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi
chiến thắng tội lỗi và sự chết " Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi,
những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ
cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết".
Tất cả những ai còn sống trong
thân xác trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về
Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên
thành của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn
đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh
Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: "Để được chỗi dậy với Đức
Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để
được cư ngụ với Chúa". Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi
thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác
trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra
đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó
tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn - Hiền Lâm
I. THÁNH LỄ I - Tin mừng Gioan
6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta
tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba
thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội
Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng
ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời,
thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là
các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho
chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng
nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga
6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu
khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu
độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng
ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của
cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho
các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng
là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh
lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin
tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi
không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại
trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng
những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu
nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô
(x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta
biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức
là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan
Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết
để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc
nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này
với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua
tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô
(được rửa tội "bằng lửa"). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì
niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng
mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội "bằng máu"). Lại nữa, Ơn
Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính
vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: "Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc
tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng
Người" (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng
ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: "Chúa Giêsu đã chết để
cứu chúng ta là tội nhân..." (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi
nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào
Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng
ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II - Tin mừng Luca
23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh
lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được
nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao
đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: "...Thiên Chúa sẽ
lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân
một bữa tiệc... Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông..." (x. Is
25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II),
thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia
nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế
gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa
sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng
và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng
chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của
Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước
Chúa như người "trộm lành" kia, theo Chúa trong "giờ thứ
11", nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi
của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh
chàng "trộm lành" có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng
của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần
thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội
lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa
Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám
hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến
niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một
đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin
vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu
mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân
trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là
đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các
tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng
giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô,
sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng
từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời
sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên
bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông
vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc
nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III - Tin mừng
Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội
cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau
khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau
đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời
tuyên xưng của cô Martha.
- "Lạy Thầy, nếu Thầy có
mặt ở đây thì em con đã không chết"
Phải, "được Chúa thì được
tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay". Lời nói của Martha như là một lời
than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một
cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi
vắng Chúa Giêsu.
- "Bất cứ điều gì Thầy xin
thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy"
Nghĩa là dù em con đã chết rồi,
nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy,
dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi
và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng
liêng với muôn vàn ơn phúc.
- "Con biết em con sẽ sống
lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết"
Đây là điều chúng ta tuyên xưng
trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Đức
tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời,
linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được
phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà
trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ
đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự
hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các
linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa
Giêsu về sự sống.
- "Chính Thầy là sự sống
lại và là sự sống"
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của
linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ
chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại.
Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin
vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- "Ai tin vào Thầy thì dù
chết rồi thì vẫn sẽ được sống"
Hôm nay chúng ta dâng lễ và
viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin
vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn
mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng
ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho
về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- "Ai sống và tin vào
Thầy, sẽ không bao giờ phải chết"
Lời này hướng đến chúng ta là
những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu
Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về
cuộc sống vĩnh cửu.
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
"Tôi nhận ra rằng mọi sự
Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt.
Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người". (Gv 3,
14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người
duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ.
Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình
một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh
nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ
anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh
trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi
tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự
tuyệt vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau,
anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta
đã đến để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi
những người cứu mình. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của
anh".
Những người đã chết cũng đang
sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có
ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã
trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ
còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô
tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo
những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin "xin
cứu giúp họ". Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những
người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải
thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác
hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta
cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
"Đức Mẹ đã tỏ cho chúng
con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn
dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông
suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám
cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ
chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng
xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la
thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng
mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm
giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến
này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối
với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ
nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên
đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng
ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà,
cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là
những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận
nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh
luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục,
Giáo hội cũng khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa,
nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời,
còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết
để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của
những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời
đời" (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu
giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25,
tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách
đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội
cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi".
Mỗi người chúng ta đều có những
người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh
lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta "Xin đừng quên
tôi". Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp
nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu
nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
"Bố ơi, trong cuộc đời của
một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?"
"Chỉ một buồng duy
nhất." - Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả
lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng
phải cho vài buồng quả.
"Khi buồng chuối chín cũng
là lúc cây chuối mẹ chết đi." - Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát
một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và
xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một
buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối
chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng
chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình - chất dinh
dưỡng trong gốc, thân và lá - để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho
đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi
vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết
cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây
chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống
mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh
dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng
mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ
tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã
đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ
đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái
chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng
ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã
thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát
triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến
già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày
còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ
song thân".
"Biết thờ song thân",
thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho
xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với
đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không
yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi
con".
Thế nên, nếu so sánh công đức
của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn
hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn
lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì
đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó
đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường
đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ
dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền
bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là
danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các
ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các
ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau
kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ
đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những
người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của
mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm
con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng
cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng
lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa
đa,
Chồng gần không lấy, để lấy
chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai
dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày
một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng
nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi
chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo
bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta
"ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ
lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi
còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các
ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Trích từ vietcatholic.net -
LM. Nguyễn Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội
đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái.
Thánh Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì
chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi
thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen
cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho
người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh
Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu
nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười
Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được
Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng
cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai
đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do
đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên
Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu
nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người
chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến
ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có
thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma
trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với
tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa
trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến
và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người
chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng
ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy
nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự
chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người
thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên
Thiên Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi
luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một
thời gian ngắn của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi
chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở
Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là
tình yêu Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn
thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được
xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước
được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn
vẹn" (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi
trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng
con đau đớn
vì phải chia tay với những
người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn
dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái
chết
như một định mệnh nghiệt ngã và
phi lý,
nhưng như một hành trình trở về
nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết
thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không
tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng
phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước
vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời
dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống
mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút
trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng
con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là
khách lữ hành
đang trên đường về quê hương
vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm
người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách
chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn
Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa
cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên
trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất
tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt
trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ
trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc
trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc
sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn
thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia
sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng
hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong
tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống
trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ
tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm
việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng
tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau
buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự
chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống,
mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các
Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau
sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu
nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình
yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu
mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông
Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh
thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã
không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức
khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được
Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của
chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin
muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng
lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người
thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con
cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau
trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau
sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng
có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi
ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ
niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên
bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh
mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh
thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm
hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại
sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của
linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui
mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng
đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được
nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng
chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu
trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải
qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân
Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa
Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng
các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội
Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ
Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép
hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung
của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác
thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng
sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong
các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người
quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui
buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình
người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa,
Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân
đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và
những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và
niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa
Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương
liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện
cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những
thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành
lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những
chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những
viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba
ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa
kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi
về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng
biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng
hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ
Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi
đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ
phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá
hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa
Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng
nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị
cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn
đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu
dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về
cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ
này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và
sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu
sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín
trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến
Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây
dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp
tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi
cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã
làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta
không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với
một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn
đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay,
không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự
kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế
thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến
sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau
khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không
biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào
Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách
riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay,
cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương,
cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết
thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn
thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người
công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu
cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được
trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn
bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo
dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu
rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người
đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về
những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới
thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời
với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó
không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất
vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm
của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao
giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt
trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn
nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh,
cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu
lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên
nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta
thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh
Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó,
còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng
trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên
thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong
Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu
chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho
chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô
ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục
Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta
(những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy
vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có
những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố
gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu
Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm
"lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài
"Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì
về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc?
Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần
thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối
Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để
thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc,
chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu
chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào
Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi
công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa
Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự
Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc
lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ
đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này,
sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc
đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất
vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên
vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn
của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn,
với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa
luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng
chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ
ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ
đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật
mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm
họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ
đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không
phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là
thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa.
Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào
lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp
tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ
giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa
phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt
rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự
liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta
còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu
khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì
giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình
trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập,
đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương
tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu
thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập
nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một
nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho
các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu
những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh
quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự
khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con
người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện
của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta
lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử
Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh
động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi
ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và
các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một
sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc,
là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các
bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút,
chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây
dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta.
Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta
tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt
mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội
cho chúng ta.
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)
(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức
Trí)
Kính thưa quý OBACE, bầu không
khí của những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai
cũng vội vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ
cũng vì mải chạy theo dòng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đã
quên cả sự hiện diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng
một mái nhà. Trong không khí vội vàng ấy, thì Giáo Hội đã dành cả một tháng
cuối năm để nhắc cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen
đến đâu thì cũng phải nhớ đến chung cuộc đời mình, và cái chết là điểm hẹn
chung của mỗi người. Cũng trong tâm tình ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ
đến và cầu nguyện cho các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người
đã ra đi trước chúng ta và đã đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết
quý trọng, biết ơn và thảo hiếu với những bậc sinh thành những người đang còn
sống.
Tất cả chúng ta sẽ phải chết,
đó là sự thật không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết
như thế nào và sau cánh cửa sư chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui
sướng hạnh phúc, hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi
người biết sống hôm nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận
của con người có sinh thì có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó
vốn là tiến trình tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn
mang một ý nghĩa khác, nó trở thành hình phạt cho con người, chính vì thế, cái
chết nó trở nên kinh khủng cho con người. Vì sợ hãi, nên con người tìm cách
tránh né nó, không dám đương đầu đối diện với nó, và vì thế nhiều người còn tìm
cách lẩn trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với
công việc và quay cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc
nuối và sợ hãi.
Mọi người đều phải chết, nhưng
điều quan trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta
sau cái chết? Cứ nhìn vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể
thấy, nhiều người khi sinh thời họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang
dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì,
điều quan trọng là tình trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn
như thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng
ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và
chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay
trắng, vì chúng ta không mang gì vào trần gian, thì chúng ta cũng sẽ không thể
đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta
có thể mang theo đó là tình yêu đối với Chúa và tình thương của chúng ta đối
với anh em, và chỉ có một thứ hành lý duy nhất là các việc lành việc tốt, việc
bác ái và hy sinh.
Mỗi lần ra đất thánh này không
chỉ nhắc cho chúng ta về cái chết, mà còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống,
phải sống thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên.
Đứng bên nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ,
mà còn có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay
phũ phàng với người đã khuất.
Ngày hôm nay trong xã hội mọi
sự đều tăng giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng,
con người đối xử với nhau càng ngày càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em
ruột thịt cũng bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính
toán, bao nhiêu cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh
chúng ta. Có nhưng người đã không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không
bằng một đứa ôsin trong gia đình, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập
nhục mạ những đấng đã dày công sinh thành dưỡng dục mình, người ta có thể bỏ ra
bạc triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời
hỏi thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền,
việc làm đó không phài là báo hiếu, không phải là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn
là giả hình, là phô trương che mắt thiên hạ.
Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và
các bậc sinh thành không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà còn là một đòi
buộc của Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta
phải hết lòng yêu mên, kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha
mẹ vợ cha mẹ chồng của mình, khi các ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua
đời; Vì chính cha mẹ là những đấng đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng
ta, nuôi cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao
mồ hôi nước mắt. Cha mẹ chính là những người đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi
chúng ta khôn lớn và dạy chúng ta nên người, vì thế chúng ta mắc nợ các ngài
món nợ sư sống và món nợ của tình yêu thương. Hãy kính trọng các Ngài, thông
cảm an ủi khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi
thân, hãy chịu đựng và chăm sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đã từng
phải chịu đựng và chăm sóc cho chúng ta. Hãy lo lắng cho phần thiêng liêng của
cha mẹ bằng việc giúp các ngài được lãnh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ
cho tuổi già của các ngài, hãy làm tất cả những gì tốt nhất cho cha mẹ khi các
ngài còn sống, vì khi cha mẹ mất đi, sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được.
Không chỉ biết ơn khi cha mẹ
còn sống, mà còn phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đã qua đời, bằng việc đọc
kinh cầu nguyện, bằng việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài,
nhắc nhở cho con cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ
vợ bằng việc chu toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng
để mang tiếng, những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.
Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ
tiên bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đình, thực hiện và làm phát
triển tài sản tinh thần mà cha ông đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con
cái nên người, qua việc giữ gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự
của tổ tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên
bần tiện nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông
bà cha mẹ, bằng chính gường sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà,
vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì sẽ gặt quả
ấy, chúng ta vạch mực đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến đó. Vì thế không
có bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa
đồng thời cũng đòi buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ
phận giáo dục, nuôi dưỡng. Hãy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo
làm người làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong
đến việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con
cái, và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu
khí đạo đức và cầu nguyện cho gia đình, và trở thành gương sánh cho con cái
trong việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hãy tập cho con cái yêu mến và hăng
say làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của mình, vì khi còn nhỏ, các
em có thói quen và tinh thần tông đồ, thì sau này các em sẽ trở thành người tín
hữu nhiệt thành. Hãy làm cho gia đình mình mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận hòa
qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng
làm cho bữa cơm gia đình thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự
chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành tòa án để kết tội nhau.
Nhưng người cha, hãy thực sự là
cột trụ trong đời sống của gia đình, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các
người mẹ hãy dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia
đình thêm ấm cúng, hãy cùng nhau làm cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười,
đừng biến gia đình mình trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con
hãy góp phần mình làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn
vâng lời và chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi
ngườui tân có mất đi, mình sẽ không phải hối hận vì đã chưa làm được gì cho họ.
Amen
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe
là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho
các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa
Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường
dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua
Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha.
Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của
Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh
của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi
dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ
gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự
đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận
Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các
môn đệ: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình
an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã
thắng thế gian" (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt
lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để
Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân
là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ
chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống
đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn
đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn
tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến
trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người
sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài
dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp:
«Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó
với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho
con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều
kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh
quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình
yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của
sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và
trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham
dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài
ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy
thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện
với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn
đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn
đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng
mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết
rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa
Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các
môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng,
các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu
cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các
ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu
giới thiệu Ngài là "Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự
sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được
sống". Ngài còn nhấn mạnh: "Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống
đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết".
Bánh Hằng Sống là lương thực
làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh
Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi "làm thế nào
có được sự sống đời đời", là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa
Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời
sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là
một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật
thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc "ăn
thịt và uống máu Người"
"Ăn thịt và uống máu
Người" nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như
hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có
sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị
gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng
cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn
tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự
sống đời đời; "Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con
Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống
muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta
đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa
Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối
trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của
mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và
cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người
thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống
trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay
thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của
chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin
rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta
tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông
chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các
linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người
đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu
đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày
08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá.
Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết
sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả
anh chị em.
13. Lễ CÁC ĐẲNG - Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11;
Ga 6, 37- 40)
Chúng ta vừa bước vào tháng 11,
tháng dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà
Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo
Hội muốn chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này.
Như vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất;
trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta
nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã
"vắng bóng"được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên
đàng".
Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn,
chúng ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.
Giảng lễ:
I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin
sự sống lại và sự sống vĩnh cửu.
Chẳng phải là tín hữu ngày nay
chúng ta mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên
bố: "Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được
ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy
không phải là người xa lạ" (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin
rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất
để cứu ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của
ông được tạc vào đá cho đến muôn đời.
Là tín hữu, chúng ta xác tín
mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi
Người nói: "Ý của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi
không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6,
39). "Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời" (Ga 6, 40).
Không để mất một ai nghĩa là
thế nào? Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng "ngay khi
chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta
được cứu, khi chúng ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình". Không để
mất một ai là "bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi
chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn
cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên
công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với
Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 5, 6-11).
Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như
vậy để củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc
sống trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho
những người đã chết được, nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về
Tình yêu Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những
vong nhân.
Cầu nguyện cho những người đã
khuất là một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta.
Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa
không để mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng
tinh thần hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được
ỷ lại vào Chúa.
Công đồng Vatican II nhắc lại
mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công như sau: "Trong số những môn đệ Chúa,
có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất
cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm
ngưỡng rõ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông
với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng.
Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ
buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã
chết".
Hơn nữa, người tín hữu đã chết
trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những
hình phạt tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa
xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền:
"Tất cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều
không được vào thành..." (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện
xong mới vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công
đồng Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.
Purgatorium, chỉ luyện ngục, có
nghĩa là tinh luyện.
Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội
dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng
11 này và đặc biệt hôm nay ngày 2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm
3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện
cho những người đã khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường
cho các linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình.
Giáo Hội còn khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho
các linh hồn, vì: "Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người
sống" (Tục ngữ).
Thế nên, người sống có nhớ đến,
có cầu...thì người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho
người "chết". Nếu chết là chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích
lợi gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
14. Nguồn nước mắt - ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều
hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây
trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang.
Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang,
chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ
tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết
luận án: "Đau khổ của tình yêu".
Đã có những cảm nghiệm độc đáo
in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt
ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu
dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn,
nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối
hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng
tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình,
hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin
sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa
các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý
nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng
ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là
những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự
chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan
trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết.
Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ,
vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang
khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn
một đoạn Phúc Âm: "Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày
ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy
mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của
ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc
anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết,
và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và
người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên,
thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ
ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô
nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa
thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy
nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời
chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải
chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn,
đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta
đây cũng không được" (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta
những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người
sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời
này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa,
chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ
vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái
lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh
đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người
dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó
đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như
trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại
nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm
trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua
một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã
chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người
nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu
phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: "Người khoẻ mạnh
không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu
này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu
vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất
vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương,
được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ
dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an
trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì
xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng
không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt
ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy
người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu
nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu,
tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau
buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những
cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về
người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với
những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi
nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được,
miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa
kêu gọi: "Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con" (Ga
15,4).
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Đây là một câu chuyện có thật
về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm
2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn
ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt.
Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối
cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của
cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã
rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ
thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn
sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã
qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và
tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng
dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết.
Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không
gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một
đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ
từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3
tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người
phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai
mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn
bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu
hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra
sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di
động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con
có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ
bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin
nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất
yêu con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho
chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như
trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày
còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ
song thân".
"Biết thờ song thân",
thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho
xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với
đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không
yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi
con".
Thế nên, nếu so sánh công đức
của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không
gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ
trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay
những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô
ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt
bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ
bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một
tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có
thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con
khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ
kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con
khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều
cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng
công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời
cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu
từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú
mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ
bao la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu
tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương
con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì
đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó
đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường
đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của
tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền
bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó
không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của
dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của
chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu
nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi
chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất
yêu con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn
sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng
ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và
tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là
bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện
của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn
phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày
đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng
được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy
biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các
ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc
thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu
nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng
kính tổ tiên. Amen.
16. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ
QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm
nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện
ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh
luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà
Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn
biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải
kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ
hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng
ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi
được thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn
toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì
đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở.
Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi,
những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi
hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm
dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta
sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không
xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta
một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta
sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với
sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên
Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác
quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng
của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp
với nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công
bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những
phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó,
chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì
hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một
điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và
hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta
nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải
chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và
thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính
là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục
chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn
cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy
vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa
ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện
ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang
phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được
nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem
lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế
nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống
trong cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi
thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu
nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã
chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có
giá trị cứu rỗi.
17. Nghĩ về sự chết - ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Tôi biết là có ngày tôi sẽ
chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là
một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó
nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố
đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan
trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu?
Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có
thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm
nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người
sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ
không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là
cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm
thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường
nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải
đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa
xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những
buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn
năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin
tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế
phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới
lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi
về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói
riêng.
Trước đây, có nhiều điều về
trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn
trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp
chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được
làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự
sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh
trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa,
nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những
phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những
phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao
đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát
triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể
không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi
đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng
công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề
đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà
sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường
nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình
như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình
như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên
trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là
sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo
Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm
con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa
Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên
mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu
căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường
xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình
như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và
chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở
thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế,
tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn
người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều
liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng.
Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn
trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình
như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được
từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình
tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng: chúng
ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không
yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát
nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí
mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh
em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà
chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy
được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu
môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ
vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta
sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng ta
hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói:
"Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu
mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được
từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga
4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể
trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng
nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan
trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi
biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải
lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa
mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng
ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ
được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời
vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính
đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến
triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót,
chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới
vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết
thôi.
18. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông
sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một
cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một
thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống
linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê
hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc
tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh
luyện nữa.
Có một người sau khi chết được
dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn
lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi
người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục
là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn
thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và
tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai
chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất
xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải
là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các
thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong
sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục
chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó,
luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con
cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của
cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên
thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng,
thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm
rồi.
Thực trạng bất toàn của con
người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối
mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa
và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với
bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng
ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời
của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn
nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng
thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu
thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi
đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện
kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn
bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình,
các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội
lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một
đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp
thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những
thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần
đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các
ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
19. Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày
vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết
mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm
2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành
khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu
bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm
đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát
trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được
bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để
được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh
chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy,
38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn
Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống
Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay
của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác
nào được tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001).
một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden
đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn
tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập
một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba
ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế,
tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc
triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ
Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài
người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với
một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm
vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao
người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu.
Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng
cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ
không một lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang
cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ
hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống
đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo
lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng
quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm
kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những
khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời
đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc
và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải
lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có
thời để sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông
A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm
mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải
từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra
đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai
mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận
con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ,
sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không
trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc
sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục.
Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc
bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng,
như lời Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét,
thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như
sau: "Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết
và nộp thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất
vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến
gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì
của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền
bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng
không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu
con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi
mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình
tôi" trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết:
"Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ
là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14).
Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh
triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai
hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì
cái thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt,
không một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào
thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của
đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những
trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A
đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng
nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử
quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa
sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu
đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và
nói: "Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa.
Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng
than-thở: "Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng
là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14,
5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng
không biết mình." (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác,
trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới
tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa:
"Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ
héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng
đời mình, Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã
tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải
chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn
xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi
sắp từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với
những lời gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi,
tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu
trước mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo:
"Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao
chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?"
(Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã
viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng
chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn
đòi tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một
kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn
tôi thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ
để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười
nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có
thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo
cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức
Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển
sách, sách sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và
nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha
chẳng lúc nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết
và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta
vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã
nói: "Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng
ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một
thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về
sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi
kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy
mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng
chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với
vua Hezekiah: "Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi
đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên
phán cho mọi người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi."
(Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn
"Thiên-lộ lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng
than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời
nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một
tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao
lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống
sung-sướng trong cõi đời đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những
giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời:
"Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui"
(sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa
Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ
đã nói: "Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi."
(Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác
tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh
"Dâng Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau:
"Lạy Cha, con phó-thác
mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng,
con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha
được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi
khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha.
Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì
con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình
con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của
con. Amen."
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho
trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi
một em trai: "Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những
người đã sống cuộc đời rất tốt lành?" Không do dự, chú bé đáp: "Hãy
lên trời sống với Ta". Rồi linh mục hõi một em bé gái: "Còn những
người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?". Cô
bé đáp: "Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác".
Linh mục nói tiếp: "Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành
đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?" Một em bé
nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng:
"Thiên Chúa sẽ nói: "Ta sẽ nhìn các con".
Câu chuyện này làm nổi bật hai
trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay
và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn
trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên
trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ
qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý
khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn
ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho
nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ
"luyện ngục" trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về
nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau
khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục
tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó
cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những
người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như
bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện
ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã
chết: "Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức,
để họ được tha thứ tội lỗi" (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không
được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp
mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng
Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh
với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này
là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu
nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện:
"Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang
an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan
Chúa".
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh
Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều
là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng
ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những
người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng,
nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được
thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là
một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện
cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng
manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại
thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình
thông hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ
nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những
thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng
kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và
mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp
thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội
đã viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho
những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một
việc lành thánh...".Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết
như sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người,
với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên
Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn
phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự
thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong
nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ
ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết
và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự
chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện
diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết
không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự
chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính
Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm
cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với
những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người
sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho
một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người
đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để
canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là
tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của
chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá
cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy
vọng cho chúng ta.
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn - JK
(Lc 23,33-34.39-43)
Câu hỏi gợi ý:
1) Thiên Chúa không
muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh
luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
2) Chịu thanh luyện
để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự
trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
3) Người gian phi
đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng
ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện?
dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo
về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này,
người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố.
Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn
hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội
hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là
"Thanh Luyện"» (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện
là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không
còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một
sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc,
hoàn toàn thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời.
(Gọi là «nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa
ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng
tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn
hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện.
Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác,
xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người
trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía
Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì
phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng
hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn
bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng
mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người
khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây
nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ
làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở
thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những
người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì
phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là
đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao
giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một
cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực
tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên
nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết:
«Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5).
Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội
lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội
lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ
không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ
tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con
người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho
người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc
cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây
đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là
tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm
hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa
hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và
đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát
sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên
hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn
tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được
ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người - vốn đã giữ rất chu đáo các lề
luật - hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều,
là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên
trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu
thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được
hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho
mình chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin
Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ
như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau
khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là
đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!».
Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối
cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành,
xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «Tình
yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình
yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành
trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của
ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài
cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó
đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô
cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu
thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải
chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì
lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn
tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một
dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực
nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang
phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy - một cách chủ quan - tăng lên gấp bội.
Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi
muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ,
hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức
tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu - tuy
dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên - bỗng nhiên
mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi
đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời
sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau
khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh
phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy
hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những
người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi
yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất
vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay
cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi - trong đó có tôi - đều cảm thấy hạnh phúc
trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất
vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi
thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy
mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy:
không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên
mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại
đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm
của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình,
trong xã hội... và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm
có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình
yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ
hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo»
(1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau
khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con
không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không
còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và
hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể
cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.
23. Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những
người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn
được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy,
chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu,
nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng
ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính
sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném
vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy
vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ
chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã
được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật
là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những
thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình
phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe
một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa
xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi
nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin
ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng
tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng
tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của
người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn
thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu
giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay
trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một
người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với
nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu.
Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu
của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai
lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm
về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh
hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các
ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu
nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong
hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng
Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị
chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ
an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ
trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh
mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em
hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra
nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các
linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét,
thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với
Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn,
hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
Một người Mỹ tên là Habốc thành
lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân "Liên minh thiên
đàng". Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến
những người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết
thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế
nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. "Liên
minh thiên đàng". Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới
tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình
nguyện chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung
bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa "Liên minh
thiên đàng" tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người
trong sạch, không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất
định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng
bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động
không những khắp nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với
những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng
những kỳ quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng
ta không có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ
mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên
hệ giữa người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi
người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt
giữa tín điều của người công giáo và hãng bưu điện "Liên minh thiên
đàng" của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc
vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó
mà đạt được mong muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo
phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ
thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên
hệ với người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình,
dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có
muốn liên lạc hay không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được
với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau
và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời.
Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới
rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một
nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền
đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những
người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại
càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì
những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống
tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm,
những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái
lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương
yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày
lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể
mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời,
nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và
một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các
linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi
hay không mà thôi.
Và nếu những người thân quen ở
bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ
sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt
thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng
ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi
cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc
đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện... Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng,
chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ
mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà,
cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu
giúp của chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng
ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần
phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà không biết
tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết
tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng
không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.
Sưu tầm internet